Hộ kinh doanh là tổ chức chi trả thu nhập: Kiến nghị áp dụng đúng pháp luật để tránh thất thu ngân sách nhà nước

Hiện nay, việc xác định đối tượng có nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập cá nhân (TNCN) khi chi trả thu nhập vẫn còn tồn tại nhiều cách hiểu và cách áp dụng chưa thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt, trường hợp của hộ kinh doanh (HKD) – một chủ thể có hoạt động chi trả thu nhập trên thực tế, nhưng không được xem là “tổ chức chi trả thu nhập” theo hướng dẫn tại Thông tư 111/2013/TT-BTC – đang đặt ra nhiều vấn đề pháp lý cần được xem xét lại một cách nghiêm túc.

Bài viết này phân tích các quy định hiện hành liên quan, đối chiếu với khái niệm “tổ chức kinh tế” theo Luật Thống kê 2015 và nguyên tắc áp dụng văn bản pháp luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhằm làm rõ những bất cập trong quy định hiện hành và hệ quả là nguy cơ thất thu thuế nghiêm trọng từ khu vực hộ kinh doanh – nơi đang có gần 10 triệu lao động làm việc và nhận lương hàng tháng.

1. Cơ sở pháp lý khẳng định hộ kinh doanh là tổ chức kinh tế

Theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật Thống kê năm 2015 (hiện hành):

“Tổ chức kinh tế là đơn vị có tư cách pháp lý hoặc không có tư cách pháp lý, có địa điểm cố định, thực hiện một số hoạt động kinh tế nhất định.”

Theo định nghĩa chính thức và có giá trị áp dụng thống nhất cho toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước, hộ kinh doanh (HKD) – dù không có tư cách pháp nhân – vẫn là tổ chức kinh tế, tương tự như doanh nghiệp tư nhân hoặc hợp tác xã.
________________________________________

2. Tổ chức kinh tế có chi trả thu nhập là tổ chức chi trả thu nhập

Theo Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính, tổ chức chi trả thu nhập có nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập cá nhân (TNCN) trước khi chi trả cho cá nhân. Dù Thông tư không định nghĩa cụ thể thuật ngữ này, nhưng theo logic quản lý thuế, có thể khẳng định:

Mọi tổ chức kinh tế có chi trả thu nhập cho cá nhân đều là tổ chức chi trả thu nhập và có nghĩa vụ khấu trừ thuế TNCN theo hướng dẫn tại Điều 25 nêu trên.

Do đó, hộ kinh doanh – khi sử dụng lao động và trả lương, tiền công – thuộc đối tượng phải thực hiện khấu trừ thuế TNCN.
________________________________________

3. Ưu tiên áp dụng Luật Thống kê khi có xung đột pháp lý

Theo nguyên tắc tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, trong trường hợp có sự mâu thuẫn hoặc không thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật, thì:

• Văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn được ưu tiên áp dụng;
• Văn bản được ban hành sau có thể thay thế hoặc hướng dẫn lại văn bản trước đó.
Cụ thể:
• Luật Thống kê năm 2015 là luật chuyên ngành, ban hành sau Luật Thuế TNCN năm 2007, và có hiệu lực pháp lý cao hơn Thông tư 111/2013/TT-BTC – vốn chỉ là văn bản hướng dẫn.

• Do đó, nếu có xung đột trong việc hiểu khái niệm “tổ chức kinh tế” hay phạm vi tổ chức có nghĩa vụ khấu trừ thuế, thì phải ưu tiên giải thích và áp dụng theo Luật Thống kê.
Tức là: Hộ kinh doanh – được xác định rõ là tổ chức kinh tế – thì đương nhiên là tổ chức chi trả thu nhập trong mọi văn bản dưới luật liên quan đến quản lý thuế, kể cả Thông tư 111.
________________________________________

4. Lỗ hổng trong áp dụng thực tiễn và bất cập chính sách

Dù cơ sở pháp lý đã đầy đủ và logic áp dụng là rõ ràng, thực tế quản lý thuế lại cho thấy:

• Nhiều hộ kinh doanh không thực hiện khấu trừ thuế TNCN khi chi trả tiền lương, tiền công cho người lao động;

• Hệ thống kê khai thuế chưa hỗ trợ HKD thực hiện nghĩa vụ này;

• Cơ quan thuế không kiểm tra, đôn đốc nghĩa vụ khấu trừ đối với HKD;

• Một số quan điểm áp dụng sai lệch cho rằng HKD không phải là tổ chức chi trả thu nhập, mặc dù HKD có sử dụng lao động thường xuyên và chi trả tiền công hàng tháng.

Hậu quả là tạo ra lỗ hổng lớn trong quản lý thuế, gây thất thu đáng kể cho NSNN, đồng thời tạo bất bình đẳng nghĩa vụ thuế giữa doanh nghiệp và HKD.
________________________________________

5. Mức độ nghiêm trọng của thất thu ngân sách nhà nước

Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Thống kê và Bộ KH&ĐT:

• Hiện cả nước có trên 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động thường xuyên;

• Và ước tính gần 10 triệu người lao động đang làm việc, nhận lương từ các hộ kinh doanh này.

Nếu chỉ khoảng 50% số lao động trên thuộc diện chịu thuế TNCN, nhưng không bị khấu trừ đúng quy định, thì số thuế thất thu có thể lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm – một con số rất đáng báo động.
________________________________________

6. Kiến nghị hoàn thiện chính sách và thực thi thống nhất

Để bịt lỗ hổng thất thu và bảo đảm tính công bằng, kiến nghị:

• Thống nhất lại cách hiểu trong toàn ngành thuế: Hộ kinh doanh có chi trả thu nhập là tổ chức chi trả thu nhập;

• Sửa đổi, bổ sung Thông tư 111 hoặc các văn bản hướng dẫn để thể hiện rõ trách nhiệm khấu trừ thuế TNCN của HKD;

• Cải tiến hệ thống kê khai và thanh kiểm tra thuế để theo dõi nghĩa vụ khấu trừ thuế từ HKD;

• Tăng cường truyền thông, hỗ trợ HKD tuân thủ nghĩa vụ thuế theo đúng quy định pháp luật hiện hành.

Một câu hỏi lớn đặt ra cho các HKD: Nếu như cơ quan thuế căn cứ vào các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trên để “hỏi thăm” các Chủ hộ thì sao?

Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của người viết trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến đối tượng có nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập cá nhân khi chi trả thu nhập. Tuy đã thận trọng trong việc đối chiếu và lập luận, nhưng do giới hạn về nhận thức và nguồn thông tin, bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót hoặc chưa toàn diện.
Rất mong nhận được ý kiến trao đổi, phản biện và góp ý từ bạn đọc, để cùng nhau hiểu đúng, áp dụng đúng pháp luật và góp phần hạn chế các rủi ro pháp lý có thể phát sinh trong thực tiễn.

Tin liên quan