GÓP Ý MỘT SỐ ĐIỂM CHƯA PHÙ HỢP CỦA CÁC VĂN BẢN THUẾ

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ:

Việc ban hành các văn bản vi phạm phạm pháp luật cần tuân thủ các quy định của Luật ban hành văn bản pháp luật; Trong thời gian qua đã xuất hiện hàng loạt các văn bản liên quan đến thuế như Nghị định, Thông tư được các cơ quan chức năng ban hành chưa đúng với chức năng, quyền hạn đã được quy định, cụ thể:

– Luật không yêu cầu hướng dẫn, Chính phủ vẫn hướng dẫn bằng Nghị định;

– Chính phủ không yêu cầu hướng dẫn, Bộ Tài chính vẫn hướng dẫn bằng Thông tư;

– Luật giao Chính phủ hướng dẫn, không trực tiếp giao Bộ Tài chính hướng dẫn nhưng Bộ Tài chính ban hành Thông tư trong đó ngay tiêu đề đã chưa phù hợp (Thông tư 156/2013/TT-BTC, Thông tư 111/2013/TT-BTC, Thông tư 219/2013/TT-BTC…; Trong đó: "Hướng dẫn thi hành Luật…"

– Luật không yêu cầu hướng dẫn, Chính phủ không hướng dẫn nhưng Bộ Tài chính vẫn hướng dẫn theo kiểu Thông tư hóa các Công văn trả lời vướng mắc cho doanh nghiệp;

– Thông tư hướng dẫn thường thêm vào những nội dung chưa đúng nếu không nói là trái với các quy định của Luật nhưng thông thường là theo chiều hướng có lợi cho cơ quan soạn thảo;

– Luật/Nghị định đã rõ và có thể trực tiếp triển khai, nhưng Thông tư vẫn chi tiết ra để giới hạn nhưng không thể bao hàm được toàn bộ các trường hợp phát sinh trong quá trình triển khai, dẫn đến quá nhiều vướng mắc mà doanh nghiệp phải hỏi, cơ quan thuế mỗi nơi trả lời một kiểu, doanh nghiệp không biết phải thực hiện như thế nào cho đúng.

Kiến nghị:

– Việc ban hành các văn bản vi phạm pháp luật cần tuân thủ các quy định, trình tự, thủ tục, các bước hướng dẫn của Luật ban hành văn bản pháp luật, hạn chế tối đa việc ban hành các văn bản dưới luật trái luật, vượt thẩm quyền;

– Rà soát, chỉnh sửa ngay các văn bản hướng dẫn trái quy định, vượt cấp, vượt thẩm quyền như trình bày ở trên;

– Luật cần hạn chế tối đa các nội dung giao cho Chính phủ hoặc các Bộ ngành liên quan hướng dẫn thêm. Trong trường hợp có giao, nên kiểm soát các nội dung hướng dẫn nhằm đảm bảo không trái/vuợt các quy định của Luật.

– Các nội dung trong Luật đã rõ ràng hoặc có thể áp dụng được cần hạn chế tối đa việc hướng dẫn thêm trong các văn bản dưới luật gây khó khăn cho cả cơ quan thực thi pháp luật và doanh nghiệp;

– …

II. QUẢN LÝ THUẾ:

Nhìn chung trong thời gian qua Luật quản lý thuế đã từng bước đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả rất lớn cho việc minh bạch trong các chính sách thuế, giúp doanh nghiệp và cơ quan thuế có cơ sở để thực hiện khá đầy đủ, rõ ràng. Tuy nhiên, như đã trình bày tại phần một vẫn còn nhiều điểm cần rà soát lại để các văn bản vi phạm pháp luật phát huy tác dụng cao hơn, hạn chế tối đa sự vận dụng chưa đúng tinh thần pháp luật của cả cơ quan quản lý thuế và người nộp thuế.

Theo phản ánh từ nhiều doanh nghiệp và người làm kế toán, mặc dù đã có luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn, tuy nhiên còn nhiều nội dung mà cơ quan ban hành cần quan tâm làm rõ để giúp thuận tiện hơn cho người thực thi pháp luật nói chung (bao gồm cả cơ quan thuế và doanh nghiệp).

Cá nhân tôi xin góp ý vài điểm sau:

– Việc quản lý thuế hiện nay được thực hiện theo qui trình một cửa liên thông ngay từ khi cấp phép kinh doanh đến các vấn đề khác liên quan đến suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

+ Việc cấp Mã số DN ngành thuế nên giao cho cơ quan cấp phép quản lý nhằm thuận tiện cho cơ quan cấp phép không phải chờ phía Tổng cục thuế cấp mã số như thời gian qua;

+ Đã áp dụng một cửa đề nghị qui trình thống nhất tránh chồng chéo, sai lệch như thời gian qua. Theo đó, nhân viên nhận hồ sơ chỉ nên kiểm tra về mặt hình thức, số lượng, mẫu biểu theo đúng qui định và tiến hành nhận hồ sơ cho doanh nghiệp, không nên kiểm tra cả về mặt nội dung vì thông thường nhân viên này không có chuyên môn nên thường xuyên dẫn đến việc yêu cầu doanh nghiệp chỉnh sửa, bổ sung không phù hợp;

– Hiện nay ngành thuế chưa đảm bảo kiểm soát tốt công việc liên quan thuế, cụ thể tồn đọng quá nhiều các doanh nghiệp đã nộp hồ sơ xin giải thể nhưng chưa thể quyết toán nghĩa vụ thuế gây thiệt hại lớn cho xã hội. Mặc dù đã có cơ chế giao cho các đại lý thuế được tham gia kiểm tra, quyết toán giải thể doanh nghiệp nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai. Bộ Tài chính cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế này để giúp cho doanh nghiệp khi không còn hoạt động nữa được hoàn thành trách nhiệm thuế theo luật định;

– Theo chủ trương của Chính phủ về việc cắt giảm thời gian thực hiện thủ tục thuế, hiện nay ngành thuế đã bỏ Bảng kê thuế GTGT. Tuy nhiên, đã phát sinh nhiều vướng mắc liên quan đến việc kiểm tra, xác nhận liên quan đến hóa đơn, chứng từ, cụ thể:

Khi cơ quan thuế cần xác minh hóa đơn, kiểm tra, thanh tra thuế tại doanh nghiệp vẫn yêu cầu doanh nghiệp cung cấp bảng kê; trường hợp hóa đơn xuất sai thuế suất (cao hơn thuế suất qui định), nếu bên bán đã kê khai nộp thuế, bên mua vẫn được khấu trừ nhưng phải có xác nhận của cơ quan thuế bên bán. Khi có phát sinh vướng mắc này, doanh nghiệp mang hồ sơ đề nghị xác nhận, không cơ quan thuế nào xác nhận cụ thể số hóa đơn cho doanh nghiệp mà chỉ xác nhận không nợ thuế. Như vậy bên mua không thể kê khai, khấu trừ vì cơ quan thuế bên mua không biết hóa đơn nào để chấp nhận. (xem công văn xác nhận đính kèm). Bộ Tài chính cần có hướng dẫn cụ thể hơn trong trường hợp này, đảm bảo quyền lợi của người nộp thuế;

– Việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp là rất hay và giảm áp lực cho ngành thuế. Tuy nhiên, như nói trên do cơ quan thuế không đủ nhân lực để tiến hành kiểm tra, quyết toán thường xuyên mà thường để lưu hồ sơ 5-10 năm. Khi kiểm tra nếu phát hiện sai sót (mặc dù không cố ý) doanh nghiệp phải chịu phạt chậm nộp thuế mà việc chậm trễ này hoàn toàn không do lỗi của doanh nghiệp. Bộ Tài chính cần có các qui định đảm bảo công bằng hơn, hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp mong muốn làm đúng qui định;

– Mặc dù Luật quản lý thuế đã qui định rất rõ ràng, cụ thể giúp người nộp thuế dễ dàng hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, còn nhiều nội dung chưa thống nhất giữa các văn bản thuế gây khó khăn cho người nộp thuế, cụ thể:

Tại Mục c, Khoản 2 Điều 78 của Luật quản lý thuế – Kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thì:

" c) Thời hạn kiểm tra thuế không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày công bố quyết định kiểm tra; trường hợp kiểm tra theo kế hoạch đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thì thời hạn không quá mười lăm ngày; và

Tại khoản 1, Điều 83 – Thời hạn thanh tra thuế thì:

"1. Thời hạn một lần thanh tra thuế không quá ba mươi ngày, kể từ ngày công bố quyết định thanh tra thuế."

Trong đó, tại Điều 120 của Luật quản lý thuế có quy định: "Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều 9, 19, 27, 30, 31, 32, 42, 43, 49, 60, 62, 72, 76, 89, 90, 91, 99, 104, 105, 111 của Luật này và các nội dung cần thiết khác theo yêu cầu quản lý thuế để thi hành Luật này."

Như vậy, Luật không yêu cầu cụ thể Chính phủ phải hướng dẫn các Điều 78 và Điều 83, nhưng được phép hướng dẫn "các nội dung cần thiết khác theo yêu cầu quản lý thuế để thi hành Luật này". Điều đó có nghĩa rằng, Chính phủ vẫn có quyền hướng dẫn 02 Điều 78 & 83 trên nếu thấy cần thiết cho nhu cầu quản lý thuế.

Thế nhưng, khi ban hành Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ không có bất kỳ Điều, Khoản nào hướng dẫn nội dung quy định tại Điều 78 và Điều 83 của Luật quản lý thuế. Điều đó có nghĩa rằng các nội dung quy định tại 02 Điều trên của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 đã rõ không cần phải hướng dẫn.

Chúng ta cũng cần làm rõ thêm một nội dung là tại Điều 120 của Luật quản lý thuế KHÔNG có nội dung nào giao Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành mà chỉ giao Chính phủ mới có thẩm quyền hướng dẫn thi hành Luật.

Thực tế khi ban hành Thông tư 156/2013/TT-BCT ngày 06 tháng 11 năm 2013 của Bộ Tài chính ngay tiêu đề của Thông tư đã phát sinh vấn đề, cụ thể:

THÔNG TƯ 156/2013/TT-BTC VỀ "HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT QUẢN LÝ THUẾ; LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT QUẢN LÝ THUẾ VÀ NGHỊ ĐỊNH SỐ 83/2013/NĐ-CP NGÀY 22/7/2013 CỦA CHÍNH PHỦ"

Như đã nói ở trên, tại ĐIỀU 120 của Luật quản lý thuế, Bộ Tài chính không có thẩm quyền hướng dẫn Luật. Như vậy, chỉ nhìn vào tiêu đề cũng đã nhận ra rằng Thông tư 156/2013/TT-BTC đã và sẽ hướng dẫn VƯỢT thẩm quyền (trực tiếp hướng dẫn LUẬT quản lý thuế).

Chính vì Thông tư 156/2013/TT-BTC hướng dẫn cả Luật quản lý thuế nên đã phát sinh rất nhiều nội dung hướng dẫn mà Nghị định của Chính phủ không đề cập. Trong phạm vi bài này tôi chỉ trình bày nội dung hướng dẫn Điều 78 và Điều 83 của Luật quản lý thuế (Nghị định 83/2013/NĐ-CP không hướng dẫn 02 Điền này). Theo đó, nội dung hướng dẫn của Thông tư 156/2013/TT-BTC về thời hạn kiểm tra, thanh tra thuế tại doanh nghiệp như sau:

Điều 62. Trình tự, thủ tục kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế.

"…Thời hạn kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế không quá 05 (năm) ngày làm việc thực tế, kể từ ngày công bố quyết định kiểm tra…."

Điều 66. Trình tự, thủ tục thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế.

"d) Thời hạn thanh tra thuế do Tổng cục Thuế tiến hành không quá 45 (bốn mươi lăm) ngày làm việc, trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 (bẩy mươi) ngày làm việcdo Thanh tra Cục thuế, Chi cục Thuế tiến hành không quá 30 (ba mười) ngày làm việc, trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 (bốn mươi lăm) ngày làm việc."

Từ 02 Điều hướng dẫn VƯỢT cấp trên, Bộ Tài Chính đã gắn quan điểm chủ quan có lợi cho cơ quan soạn thảo (trường hợp này cơ quan soạn thảo chính là Tổng cục thuế) bất chất sai cả Luật quản lý thuế. Cụ thể như sau:

1. Tại Điều 62 của Thông tư 156/2013/TT-BTC (Thông tư hướng dẫn trực tiếp Luật quản lý thuế), cơ quan soạn thảo đã tự ý thêm vào 02 chữ "thực tế". Theo quy định tại khỏan 1, Điều 8 Thông tư 156 thì không có bất kỳ định nghĩa nào liên quan đến ngày làm việc "thực tế" và chính vì thế khi triển khai kiểm tra thuế tại doanh nghiệp cán bộ thuế đã vận dụng nội dung này một cách TRIỆT ĐỂ. Cụ thể khi kiểm tra tại doanh nghiệp cán bộ thuế có thể làm việc 01 ngày sau đó nghỉ một đến vài tuần xen kẻ rồi tiếp tục đến làm việc tiếp đến khi nào cộng lại tất cả thời gian có mặt tại doanh nghiệp đủ 05 ngày làm việc thực tế.

2. Tại Điều 66 của Thông tư 156/2013/TT-BTC (Thông tư hướng dẫn trực tiếp Luật quản lý thuế), cơ quan soạn thảo đã tự ý thêm vào "Thời hạn thanh tra thuế do Tổng cục Thuế tiến hành không quá 45 ngày làm việc" vượt thời gian quy định trong Luật.

 

Kiến nghị: Đề nghị Bộ Tài chính cho rà soát lại toàn bộ qui trình ban hành Thông tư hướng dẫn Luật quản lý thuế, chỉnh sửa ngay các nội dung vượt thẩm quyền, các nội dung hướng dẫn trái luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tuân thủ các qui định về thuế, gây khó khăn cho người nộp thuế trong thời gian qua.

III. THUẾ TNDN:

Luật này có quá nhiều nội dung cần trao đổi. Tuy nhiên trong bài viết này, tôi chỉ trình bày vài nội dung để Quý vị cùng xem xét:

1. Theo định nghĩa về thuế TNDN thì: " Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, thu trên kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Đối tượng nộp thuế TNDN là tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập đều phải nộp thuế TNDN."

Định nghĩa đã quá rõ ràng, không có gì phải trao đổi thêm. Tuy nhiên trong thực tế thực thi pháp luật thuế TNDN đã phát sinh nhiều nội dung chưa phù hợp với định nghĩa cũng như các văn bản hướng dẫn về thuế TNDN của cơ quan thực thi pháp luật.

VD: Đối với VPĐD thương nhân nước ngoài được thành lập và họat động tại Việt Nam theo Luật Thương Mại. Khi làm thủ tục đóng cửa VPĐD có phát sinh khoản thanh lý TSCĐ, hầu hết số tiền thu được từ thanh lý này thấp hơn giá trị còn lại của TSCĐ. Như vậy VPĐD hoàn toàn không có thu nhập trong trường hợp này nhưng hầu hết các Cơ quan thuế địa phương, kể cả Tổng cục thuế khi hướng dẫn đều bắt VPĐD phải nộp thuế TNDN theo tỷ lệ % --> Chưa phù hợp với tinh thần của thuế TNDN.

2. Vấn đề ưu đãi thuế TNDN:

Rất nhiều nội dung hướng dẫn của VB VPPL đến nay khó có thể áp dụng đúng được. Chính vì thế hầu hết doanh nghiệp đã và đang rơi vào trường hợp vô cùng khó khăn khi làm việc với cơ quan thuế. Trường hợp cụ thể:

Ưu đãi về đầu tư mở rộng: Cho đến giai đoạn hiện nay việc đầu tư mở rộng vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể thế nào là "Đầu tư mở rộng, tiêu chí xác định ĐTMR cụ thể ra sao?…. Chính vì thế các cơ quan thực thi pháp luật mỗi nơi hiểu một kiểu, vận dụng một kiểu, hướng dẫn một kiểu,… làm cho doanh nghiệp không biết đâu để thực hiện cho đúng đã gây ra nhiều hệ lụy không đáng có trong thời gian qua.

Một điểm bất cập đáng chú ý là tại điểm 7 CP Nghị định 91/2014/NĐ-CP ngày ngày 01/10/2014 bổ sung khoản 5a Điều 19 Nghị định 218/2013/NĐ-CP thì:

Dự án đầu tư của doanh nghiệp đang được hưởng ưu đãi thuế mà giai đoạn 2009 – 2013 có đầu tư bổ sung máy móc, thiết bị thường xuyên trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì phần thu nhập tăng thêm do việc đầu tư bổ sung máy móc, thiết bị thường xuyên này cũng được hưởng ưu đãi thuế theo mức mà dự án đang áp dụng cho thời gian còn lại.”

Như vậy, việc đầu tư MMTB thường xuyên trong giai đoạn 2009-2013 được áp dụng ưu đãi thuế theo mức ưu đãi của dự an cho thời gian còn lại và được áp dụng khi có phát sinh thu nhập chịu thuế TNDN bất kể là năm nào.

Thế nhưng khi Bộ Tài chính hướng dẫn tại khoản g, Điều 5, Thông tư 151/2014/TT-BTC Bổ sung điểm g Khoản 5 Điều 18 Thông tư số 78/2014/TT-BTC như sau:

g) Dự án đầu tư của doanh nghiệp đang được hưởng ưu đãi thuế mà giai đoạn 2009 – 2013 có đầu tư bổ sung máy móc, thiết bị thường xuyên trong quá trình sản xuất, kinh doanh không thuộc dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng thì phần thu nhập tăng thêm do việc đầu tư bổ sung máy móc, thiết bị thường xuyên này cũng được hưởng ưu đãi thuế theo mức mà dự án đang áp dụng cho thời gian còn lại tính từ kỳ tính thuế năm 2014”.

Như vậy ưu đãi trong trường hợp này bị Bộ Tài chính cắt mất giai đoạn từ 2009-2013 nếu có phát sinh thu nhập chịu thuế TNDN. Theo quan điểm cá nhân tôi, trường hợp này Thông tư 151/2014/TT-BTC cũng đã hướng dẫn chưa đúng với tinh thần của Nghị định 91/2014/NĐ-CP. Đề nghị BTC xem xét chỉnh sửa lại cho phù hợp

Gần đây mặc dù BTC đã ban hành Thông tư 96/2015/TT-BTC và cũng có Công văn hướng dẫn về việc xác định đầu tư mở rộng. Tuy nhiên vẫn chưa rõ ràng, vì: Tăng vốn, tăng sản lượng, tăng tài sản,… hoàn toàn chưa đủ cơ sở để xác định là đầu tư mở rộng.

3. Vấn đề chi phí được trừ và không được trừ:

3.1. Tại Mục i, Khoản 2, Điều 9: Các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế:

" i) Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân; thù lao trả cho sáng lập viên doanh nghiệp không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh; tiền lương, tiền công, các khoản hạch toán chi khác để chi trả cho người lao động nhưng thực tế không chi trả hoặc không có hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật;"

Theo quy định trên của Luật thuế TNDN thì tiền lương của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân làm chủ) là chi phí được trừ.

Tại Mục m, khỏan 2, Điều 9, Nghị định 218/2013 hướng dẫn Luật thuế TNDN thì:

"m) Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân; chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân làm chủ), thù lao trả cho thành viên sáng lập doanh nghiệp mà những người này không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh;"

Theo quy định của Nghị định 218/2013/NĐCP thì tiền lương của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân làm chủ) chỉ được trừ khi người này CÓ trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh.

Tại mục d, khoản 2.5, Điều 6 của Thông tư 78/2014 hướng dẫn tiền lương chủ DNTN, chủ Cty TNHH MTV thì:

" d) Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân làm chủ); thù lao trả cho các sáng lập viên, thành viên của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị mà những người này không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh."

Theo quy định của Thông tư 78/2014/TT-BTC thì tiền lương của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân làm chủ) là khoản chi không được trừ với bất kỳ lý do nào.

Như vậy khi đọc các văn bản trên ai cũng nhận thấy rằng, cùng một nội dung là chi phí lương của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân làm chủ) nhưng hướng dẫn tại 03 văn bản đều khác nhau và nghiêm trọng hơn trong trường hợp này Thông tư lại hướng dẫn TRÁI LUẬT. cụ thể như sau:

– Luật thuế TNDN, tiền lương của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được trừ nếu thỏa mãn các quy định tại Khoản 1, Điều 9;

– Nghị định 218/2013/NĐ-CP, ngoài việc phải thỏa mãn quy định tại Khoản 1, tiền lương của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân làm chủ) còn phải thỏa mãn điều kiện là người này CÓ trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh.

– Thông tư 78/2014/TT-BTC, tiền lương của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được trừ trong mọi trường hợp.

Liên quan đến vấn đề trên, trong thời gian qua Quốc hội đã chỉnh sửa, bổ sung một số điều của Luật thuế theo Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 12/2015/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn về thuế TNCN đối với thu nhập từ đầu tư vốn đối của chủ sở hữu Công ty TNHH MTV do cá nhân làm chủ. Theo đó, thu nhập từ đầu tư vốn trong trường hợp này sẽ không phải nộp thuế TNCN.

Như vậy, việc tính lương cho chủ sở hữu Công ty TNHH MTV do cá nhân làm chủ mà người này có tham gia điều hành doanh nghiệp vào chi phí được trừ hay không được tính vào chi phí được trừ không còn quan trọng. Tuy nhiên, để thống nhất giữa các văn bản VPPL, hạn chế tối đa các bất cập khi triển khai vào thực tế thiết nghĩ Chính phủ cần chỉnh sửa Nghị định 218/2013/NĐ-CP hoặc BTC chỉnh sửa Thông tư 78/2014/TT-BTC để thống nhất theo đúng tinh thần của Luật thuế TNDN.

3.2. Trong các điều kiện để được tính vào chi phí được trừ là "chi phí phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh" vậy câu hỏi đặt ra thế nào là phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh?

Chính vì qui định hoàn toàn không mang tính định lượng đã dẫn đến việc mỗi nơi hướng dẫn một kiểu, mỗi người hiểu một kiểu đã gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong suốt thời gian qua. Bộ Tài chính nên xem xét để có cách xác định phù hợp hơn, hạn chế tối đa các vướng mắc phát sinh cũng như rủi ro cho người nộp thuế.

 

3. THUẾ GTGT:

 – Căn cứ theo Điều 1, luật thuế GTGT số 57/1997: "Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng."

 – Căn cứ theo Điều 2, Luật thuế GTGT số: 13/2008/QH12: "Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng."

– Các Luật sửa đổi, bổ sung trong quá trình thực hiện không đề cập đến định nghĩa "Thuế GTGT".

Như vậy tính từ đầu khi áp dụng Luật thuế GTGT đến hiện tại thì thuế GTGT được định nghĩa là: "Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng."

Theo định nghĩa của Luật đã quá rõ ràng và không có gì phải tranh luận thêm. Tuy nhiên, khi triển khai các văn bản hướng dẫn Luật thuế GTGT qua từng thời kỳ của cơ quan nhà nước (cụ thể trong các Nghị định, Thông tư,…) đã phát sinh những nội dung trái với định nghĩa của Luật thuế GTGT.

Một số ví dụ:

– Trường hợp các văn phòng đại diện thương nhân nước ngoài không phát sinh hoạt động SX, KD, không phát sinh bất kỳ giá trị tăng thêm nào, khi quyết toán đóng cửa, văn phòng đại diện có phát sinh việc thanh lý tài sản và họ đã chi trả khoản thuế GTGT đầu vào khi mua TSCĐ, không kê khai, khấu trừ theo quy định, nhưng tại sao khi thanh lý các TSCĐ này cơ quan thuế lại bắt VPĐD phải chịu thuế GTGT và thuế TNDN dưới tên gọi là thuế nhà thầu?

– Hàng cho, biếu, tặng phải xuất hóa đơn tính thuế GTGT đầu ra,… hoàn toàn chưa phù hợp trong trường hợp Doanh nghiệp là đối tượng áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có mua hàng hóa của các cửa hàng, hộ kinh doanh cá thể áp dụng thuế trực tiếp. Khi đó, thuế GTGT đầu vào bằng 0, nhưng phải chịu thuế GTGT đầu ra theo thuế suất hiện hành (không phát sinh giá trị tăng thêm nhưng vẫn chịu thuế);

– Hàng hóa, dịch vụ theo Luật thuộc đối tượng không chịu thuế nhưng văn bản dưới luật hướng dẫn lái sang hướng ngoài đối tượng còn kèm theo "công dụng". VD: Hàng nông lâm, thủy hải sản chưa qua chế biến,… ăn thì thuế suất khác, SX, TM thì thuế suất khác!? Vậy câu hỏi đặt ra là thuế GTGT đánh trên đối tượng hay đánh trên công dụng hay cả hai?

– …

Và một nguyên tắc bất di bất dịch của Luật thuế GTGT là: Khi DN đã nộp thuế GTGT hoặc đã chịu thuế GTGT đầu vào theo đúng qui định, thì phải được kê khai, khấu trừ, hoàn thuế GTGT (nếu có). Nguyên tắc này cũng đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới đã, đang và sẽ vẫn phải thực hiện như vậy một khi họ vẫn chọn sắc thuế GTGT thay cho thuế doanh thu. Thế nhưng ở Việt Nam nhiều cơ quan thuế lại làm khác, hiểu khác (mà nguyên nhân chính là bắt nguồn từ các doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng các khe hở của chính sách để gian lận thuế) khi cho rằng "bên bán còn nợ thuế, chưa nộp thuế,…. bên mua không được kê khai, khấu trừ, hoàn thuế!?". Đây chính là do luật không rõ ràng, các văn bản hướng dẫn, vận dụng trái với đạo lý và một nguyên nhân lớn nhất là các chế tài vi phạm chưa đủ sức răn đe,… nhưng không thể vì thế mà khi làm chính sách cơ quan nhà nước lại kéo ngang, cào bằng giữa người làm đúng và người cố tình làm sai.

Theo tôi nếu cứ tiếp tục theo cách làm luật này các văn bản về thuế nói chung, văn bản thuế GTGT nói riêng càng lúc càng thục lùi so với những gì được cho là ưu việt của thuế GTGT so với thuế doanh thu trước đây. Như vậy nên chăng vì cơ quan nhà nước không quản lý được ta nên quay về với thuế đánh trên doanh thu hoặc đẩy mạnh cơ chế thỏa thuận như Samsung đang áp dụng!?

– Thuế GTGT theo đúng bản chất là đánh trên đối tượng chứ không phải đánh trên công dụng. Do đó, việc quy định "Đối với sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường khi bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã ở khâu kinh doanh thương mại thì không phải kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng." là chưa phù hợp dẫn đến khó khăn khi áp dụng vào thực tế.

Kiến nghị: nên áp dụng thống nhất theo đối tượng, không phân biệt đối tượng hàng hóa dịch vụ đó phục vụ cho công việc gì vì thực tế không thể quản lý được.

Một nội dung khác về thuế suất thuế GTGT đối với phân bón: theo quy định của Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, từ ngày 01/01/2015, mặt hàng phân bón chuyển từ đối tượng áp dụng thuế suất 5% sang đối tượng không chịu thuế GTGT. Theo giải trình của ngành thuế thì việc điều chỉnh thuế suất này không làm tăng giá bán. Cá nhân tôi hoàn toàn không đồng ý với giải thích này vì phân bón khi chuển sang đối tượng không chịu thuế GTGT ở tất cả các khâu: nhập khẩu, sản xuất, bán buôn và bán lẻ sẽ xảy ra các trường hộp sau:

– Khi chuyển phân bón từ đối tượng chịu thuế với thuế suất 5% sang đối tượng không chịu thuế chủ trương, mục đích và ý nghĩa chính sách thuế GTGT mới của Quốc hội là mong muốn giảm chi phí sản xuất nông nghiệp, tăng lợi thế cạnh tranh về giá nông sản cho bà con nông dân và hỗ trợ cho các DN sản xuất phân bón trong nước;

– Khi soạn chính sách cơ quan soạn thảo đã chưa bao quát được thực tế khi triển khai dẫn đến việc toàn bộ thuế GTGT đầu vào của nguyên – nhiên – vật liệu, cơ sở vật chất,… của các đơn vị sản xuất phân bón không được kê khai, khấu trừ, hoàn thuế. Do đó, toàn bộ số thuế GTGT đầu vào phát sinh đã được doanh nghiệp tính vào giá thành sản xuất và như vậy không những không làm giảm chi phí sản xuất mà còn làm tăng chi phí cho bà con nông dân.

Chính vì thế, cơ quan soạn thảo cho rằng việc áp dụng sản phẩm phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế, không làm tăng giá bán là chưa phù hợp với thực tế sản xuất trong nước mà chỉ phù hợp một phần với phân bón nhập khẩu. Qua đó có thể thấy rằng đây cũng chính là một chính sách có vẽ như chỉ ỦNG HỘ cho việc nhập khẩu phân bón hơn là khuyến khích phát triển sản xuất trong nước!?

Kiến nghị: nên chuyển phân bón sang đối tượng không phải kê khai tính thuế GTGT đầu ra, nhưng vẫn được kê khai, khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào hoặc vẫn áp dụng thuế suất thuế GTGT 5% như ban đầu sẽ phù hợp với chủ trương và thực tế hơn.

Cũng theo nội dung giải trình liên quan đến mặt hàng nông sản, thuỷ sản khi bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã ở khâu kinh doanh thương mại từ mức 5% sang đối tượng không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT là nhằm:

 "góp phần ngăn chặn tình trạng gian lận và chiếm đoạt tiền NSNN trong việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT đối với hàng nông sản"

Nội dung giải trình này cũng hoàn toàn chưa phù hợp và đặc biệt không khuyến khích cũng như tạo điều kiện tốt cho các đơn vị tuân thủ pháp luật mà chỉ hướng đến việc ngăn chặn, hạn chế các đối tượng lợi dụng chính sách để gian lận thuế.

Theo quan điểm của cá nhân tôi, xây dựng Luật cần phải có định hướng rõ ràng, hướng đến sự phát triển chung của xã hội, Luật không phải chỉ để phục vụ cho một hay một nhóm đối tượng. Với cách làm luật như hiện nay, người làm luật luôn chạy theo sau đuôi sự phát triển của xã hội và đây chính là nguyên nhân Luật ban hành ra đôi khi chưa có hiệu lực đã phải sửa hoặc không thể đi vào cuộc sống được.

Thuế GTGT thuê nhà cho chuyên gia nước ngoài theo điều 14, Thông tư 219/2014/TT-BTC: "Trường hợp cơ sở kinh doanh có các chuyên gia nước ngoài sang Việt Nam công tác, giữ các chức vụ quản lý tại Việt Nam, hưởng lương tại Việt Nam theo hợp đồng lao động ký với cơ sở kinh doanh tại Việt Nam thì cơ sở kinh doanh không được khấu trừ thuế GTGT của khoản tiền thuê nhà cho các chuyên gia nước ngoài này."

Nội dung hướng dẫn này của Thông tư chưa đúng Luật thuế GTGT và chưa phù hợp với thẩm quyền hướng dẫn được qui định tại Luật ban hành văn bản pháp luật (Xem phân tích tại: https://www.dhco.com.vn/tin-tuc/trao-doi-binh-luan-64/trao-doi-ve-viec-hieu-va-van-dung-cac-van-ban-vi-pham-phap-luat-trong-linh-vuc-thue.html)

Về thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp:

Khi bổ sung phương pháp tính thuế này ngành thuế cho rằng mục tiêu hạn chế gian lận về thuế rất cao. Tuy nhiên, chỉ sau thời gian ngắn thực hiện đã phát sinh nhiều vấn đề mà hiện nay chưa có hướng giải quyết triệt để, đã gây quá nhiều khó khăn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, cụ thể:

– DN có doanh thu dưới 1 tỷ đồng phải áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp, khi mua hàng hóa toàn bộ tiền thuế GTGT đầu vào phải tính vào giá vốn. Như vậy giá bán của cùng một mặt hàng trên thị trường, DN áp dụng PPTT sẽ có giá bán cao hơn (bao gồm thuế GTGT) làm sao bán được hàng?

– DN khi đang áp dụng thuế GTGT theo PPTT sau thời gian hoạt động đủ điều kiện chuyển sang áp dụng phương pháp khấu trừ. Khi đó toàn bộ thuế GTGT đầu vào đã bị tính vào giá vốn Hàng hóa tồn kho không được khấu trừ thuế, khi xuất bán hàng DN phải xuất hóa đơn có thuế GTGT đầu ra. Như vậy thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ, thuế GTGT đầu ra phải nộp —> Chịu 02 lần thuế GTGT và khi đó giá bán trên thị trường chắc chắn sẽ cao hơn các DN đang áp dụng thuế GTGT ổn định theo PP khấu trừ.

Đề nghị Bộ Tài chính cần nhìn nhận việc bất cập này và có hướng giải quyết dứt điểm, hạn chế tối đa các thiệt hại cho doanh nghiệp do chính sách không phù hợp.

Quy định về hoàn thuế GTGT:

1. Hoàn dự án:

"- Dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh không góp đủ số vốn điều lệ như đã đăng ký; kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định của Luật đầu tư hoặc không bảo đảm duy trì đủ điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động;"

Theo tôi nội dung này trong luật đã trái với các nguyên tắc về thuế GTGT. Như đã trình bày phần trên về nguyên tắc thuế GTGT phải được hiểu rằng một khi doanh nghiệp đã bỏ tiền ra để nộp thuế thì phải được kê khai, khấu trừ và hoàn thuế.

Trong thời gian qua rất nhiều trường hợp doanh nghiệp bị Nhà nước chiếm dụng tiền hoàn thuế GTGT với những lí do như vi phạm các quy định VỀ KINH DOANH, NGÀNH NGHỀ,… là chưa phù hợp và đây khi Luật sửa đổi, bổ sung lần này đang muốn HỢP THỨC HÓA những lí do gây khó cho DN trong thời gian qua.

Đề nghị cơ quan Nhà nước tuân thủ các nguyên tắc của thuế GTGT, DN vi phạm nội dung nào, chế tài phù hợp theo nội dung đó, không thể dắt dây theo kiểu như trên sẽ đẩy doanh nghiệp vào bước đường cùng nếu tuân thủ chính sách của Nhà nước. Với ý thức của người có trách nhiệm với XH, tôi mong sao khi soạn Luật, cơ quan soạn thảo cần có sự nhìn nhận theo chiều hướng tích cực, hỗ trợ và khuyến khích cho cái đúng, không nên soạn theo hướng "bắt người làm đúng phải chịu chung số phận như người làm SAI".

VÀ cũng theo giải trình của liên quan đến nội dung trên:

"nhằm bảo đảm minh bạch về vốn, lành mạnh hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh và bảo đảm lợi ích của các bên liên quan và để đảm bảo đồng bộ với Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư, đồng thời để quản lý chặt chẽ, lành mạnh hoá các hoạt động kinh tế thì việc bổ sung quy định không hoàn thuế GTGT đối với các trường hợp doanh nghiệp vi phạm này là cần thiết."

Cá nhân tôi cho rằng việc giải trình này là hoàn toàn chưa phù hợp và đang ÔM VIỆC, và cũng trái với nguyên tắc cơ bản của luật thuế GTGT vì:

– Việc vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh là do cơ quan cấp phép kiểm tra và chịu trách nhiệm quản lý, không phải trách nhiệm của cơ quan thuế;

– Vai trò quản lý của cơ quan cấp phép ở đâu nếu để tồn tại những doanh nghiệp vi phạm như giải trình.

– Tại sao cơ quan cấp phép không ngăn chặn các vi phạm liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, đầu tư đã được Nhà nước giao mà lại "NHỜ" đến chính sách thuế chi phối!?

– Khi đưa ra quy định này, có phải cơ quan soạn thảo mong muốn hạn chế tối đa việc hoàn thuế cho doanh nghiệp và phải chăng đang muốn từng bước "GOM" toàn bộ các hành vi, quan hệ xã hội quy đổi ra thành TIỀN!? Dùng tiền thuế để chi phối toàn bộ các quan hệ xã hội khác chăng? Cơ quan thuế có thể làm tròn trọng trách này không? Hay chỉ đơn giản là tìm mọi cách để chiếm dụng tiền hoàn thuế của doanh nghiệp!?

-…

2. Hoàn xuất khẩu:

Theo qui định hiện hành tại Luật thuế số 106/2016/QH13, thì doanh nghiệp xuất khẩu chỉ được hòan tối đa 10% trên doanh thu thực xuất. Điều này được giải trình là thuế GTGT đầu vào hiện nay mức cao nhất là 10% và áp mức này để hạn chế số tiền hoàn thuế trong trường hợp còn tồn kho chưa xuất khẩu. Nghe có vẻ hợp lý, tuy nhiên thực tế phát sinh các trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu có mua hoặc đầu tư thêm TSCĐ nhưng không đủ điều kiện hoàn thuế theo trường hợp dự án đầu tư thì sao? Luật thuế GTGT không cấm hoàn trong trường hợp này, nhưng theo quy định doanh nghiệp sẽ không hoặc rất chậm mới có thể hoàn hết số thuế GTGT của TCSĐ đầu tư thêm như vậy đồng nghĩa với việc không khuyến khích doanh nghiệp đầu tư TSCĐ, có phù hợp với đạo lý hay không?

3. Không cho hoàn thuế GTGT hàng nội địa trong mọi trường hợp:

Việc không cho hoàn thuế GTGT hàng nội địa là hoàn toàn đi ngược lại với các nguyên tắc chung về thuế GTGT mà ngay từ đầu khi triển khai luật thuế GTGT (năm 1997) đã được chính Bộ Tài chính cho rằng việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu trước đây là bước tiến mới trong việc hạn chế tối đa việc thuế trùng thuế, thuế GTGT là loại thuế gián thu doanh nghiệp chỉ nộp thuế cho phần giá trị tăng thêm (nếu có),… việc không cho hoàn thuế theo Luật 106 là hoàn toàn trái với đạo lý về thuế GTGT. Đề nghị Bộ Tài chính cần xem xét và điều chỉnh phù hợp, không vì sự yếu kém trong quản lý mà làm sai đi bản chất được xem là ưu việt của thuế GTGT.

 4. THUẾ TNCN

Về nguyên tắc thuế TNCN là thuế đánh trên thu nhập của cá nhân có phát sinh thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên hiện nay theo hướng dẫn tại Thông tư 111/2013/TT-BTC có những khoản thuế đánh vào thu nhập mà cá nhân hoàn toàn không có thu nhập, cụ thể là thuế từ chuyển nhượng bất động sản tính trên % giá trị. Như vậy cá nhân chuyển nhượng BĐS dù lỗ vẫn phải nộp thuế – Trái với nguyên tắc thuế TNCN. Đề nghị Bộ Tài chính cần điều chỉnh cho phù hợp hoặc chuyển sang thành một sắc thuế khác sẽ phù hợp hơn.

Thuế TNCN từ đầu tư vốn: Theo qui định hiện hành nếu cá nhân đầu tư vốn có phát sinh thu nhập từ việc chia lợi nhuận phải nộp thuế TNCN với thuế suất 5% nhưng nếu pháp nhân có thu nhập từ đầu tư vốn sẽ được miễn thuế TN. Đây là lỗ hổng trong chính sách thuế mà các cá nhân nước ngoài đang vận dụng triệt để bằng cách thành lập doanh nghiệp 1USD tại nước ngoài sau đó đầu tư vào Việt Nam để hưởng chính sách. Đề nghị Bộ Tài chính xem xét điều chỉnh cho phù hợp.

Thuế TNCN đối với cá nhân đến từ các quốc gia có kí hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam theo qui định tại Thông tư 119/2014/TT-BTC sẽ chỉ phải nộp thuế từ ngày đến Việt Nam nhưng thu nhập phải được tính theo thu nhập toàn cầu. Như vậy thực tế đang diễn ra sự vận dụng chưa thống nhất về cách tính thuế đối với đối tượng này giữa các cơ quan thuế địa phương. Đề nghị Bộ Tài chính cần xem xét và thống nhất cách xử lý tránh gây khó khăn trong việc áp dụng chính sách cho doanh nghiệp khi thực hiện.

Về trách nhiệm kê khai thuế TNCN:

– Theo đúng đạo lý, việc kê khai thuế TNCN là trách nhiệm của cá nhân có phát sinh thu nhập, không phải trách nhiệm của cơ quan chi trả thu nhập;

– Việc thu thuế TNCN là trách nhiệm của ngành thuế, nhưng để thuận tiện cho việc thu thuế ngành thuế đã qui định tổ chức chi trả thu nhập phải có nhiệm vụ thu thuế TNCN và nộp cho cơ quan thuế quản lý. Như vậy việc thu thuế này là DN đang làm thay cho ngành thuế chứ không phải trách nhiệm của doanh nghiêp.

Như vậy cả 02 việc trên hoàn toàn không phải trách nhiệm của DN vậy tại sao khi thanh tra, kiểm tra thuế nếu có phát sinh thêm số thuế TNCN phải nộp mà cá nhân đó đã nghỉ việc, DN phải chịu truy thu (nộp thay) và nộp phạt? Như vậy hoàn toàn chưa phù hợp với đạo lý, đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu giải quyết tránh gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Việc Cá nhân ủy quyền cho DN quyết toán theo qui định là được phép. Nhưng cũng theo qui định của Bộ luật dân sự người được ủy quyền trong trường hợp này (doanh nghiệp) hoàn toàn có quyền từ chối nhận ủy quyền. Như vậy, tại sao trong các văn bản thuế chưa có qui định cho phép doanh nghiệp được từ chối nhận ủy quyền. Đề nghị Bộ Tài chính bổ sung việc DN được từ chối nhận ủy quyền theo qui định của pháp luật.

5. THUẾ TTĐB:

Theo quy định tại Điều 4 Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12

" Điều 4. Người nộp thuế

Người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Trường hợp tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu mua hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt của cơ sở sản xuất để xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ trong nước thì tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt."

Như vậy người nộp thuế chỉ bao gồm các " tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt." Như vậy người kinh doanh hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB không phải là người nộp thuế TTĐB?

Tuy nhiên, theo nội dung dự thảo thì:

"1. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 2 Điều 6 như sau:

“1. Đối với hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa sản xuất trong nước là giá do cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất bán ra nhưng không được thấp hơn mức tỷ lệ 7% so với giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại bán ra.

Cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở không có quan hệ công ty mẹ, công ty con, hoặc công ty con trong cùng công ty mẹ với cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất và là cơ sở đầu tiên trong khâu lưu thông thương mại. Quan hệ công ty mẹ, công ty con được xác định theo quy định của Luật Doanh nghiệp."

Như vậy với nội dung này, luật muốn đưa đối tượng nộp thuế TTĐB bao gồm cả các cơ sở kinh doanh thương mại mà cơ sở này không có quan hệ MẸ – CON với các cơ sở nhập khẩu, sản xuất.

Đề nghị nên chỉnh sửa, bổ sung cả phần định nghĩa trong Điều 4 của Luật số 27/2008/QH12 để đảm bảo tính nhất quán của Luật.

6. HÓA ĐƠN – CHỨNG TỪ:

– Một nội dung đang vướng mắc lớn nhất hiện nay là việc chưa thống nhất về thời điểm xuất hóa đơn giữa Luật thuế TNDN và Thông tư hướng dẫn hóa đơn, chứng từ, cụ thể:

Khi nhận trước tiền cung ứng dịch vụ, theo Thông tư 39/2014/TT-BTC buộc phải xuất hóa đơn ngay thời điểm nhận tiền. Theo Thông tư 96/2015/TT-BTC thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm dịch vụ hoàn thành, bàn giao.

"Theo khoản 2 điều 16 thông tư 39/2014 quy định: Ngày lập hóa đơn đối với cung ứng dịch vụ là ngày hoàn thành việc cung ứng dịch vụ, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Trường hợp tổ chức cung ứng dịch vụ thực hiện thu tiền trước hoặc trong khi cung ứng dịch vụ thì ngày lập hóa đơn là ngày thu tiền."

– Hàng cho, biếu, tặng phải xuất hóa đơn: Thực tế DN không kinh doanh các mặt hàng này mà chỉ mua về để cho, biếu, tặng tạo quan hệ tốt với khách hàng vậy mục đích xuất hóa đơn để làm gì? Có phải chỉ để cấn trừ thuế GTGT đầu vào của hàng hóa mua vào với thuế GTGT đầu ra khi cho, biếu, tặng không? Nếu như thế tại sao không qui định trường hợp này không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào để giảm bớt công việc không cần thiết cho doanh nghiêp?

Một vấn đề phát sinh là khi doanh nghiệp mua hàng hóa từ các cửa hàng, hộ kinh doanh, DN đang sử dụng hóa đơn trực tiếp không có thuế GTGT, khi cho, biếu, tặng phải xuất hóa đơn có thuế. Như vậy DN khi cho, biếu, tặng hoàn toàn không gia tăng giá trị tại sao phải chịu thuế GTGT và phải chịu toàn bộ vì đầu vào hóa đơn trực tiếp.

Kiến nghị Bộ Tài chính điều chỉnh việc xuất hóa đơn trong trường hợp này cho phù hợp với thực tế.

Tin liên quan