Gia tăng tính minh bạch và nỗ lực chống né thuế (BEPS)

Nghị định 20 nằm trong khuôn khổ kế hoạch cải cách thuế của Việt Nam nhằm phù hợp với bối cảnh toàn cầu đòi hỏi gia tăng tính minh bạch và nỗ lực chống né thuế (BEPS).
 
Nghị định 20 sẽ thay thế quy định hiện hành về giá giao dịch liên kết (“GDLK”) (Thông tư 66/2010/TT-BTC), đồng thời đưa ra những quy định mới về nghĩa vụ kê khai, xác định giá GDLK tại Việt Nam, bao gồm chuẩn bị Hồ sơ kê khai xác định giá GDLK theo ba cấp, các mẫu tờ khai GDLK mới, hướng dẫn về khấu trừ chi phí phát sinh từ GDLK và chi phí lãi vay. Đây là những thay đổi lớn so với những quy định hiện hành về giá GDLK tại Việt Nam.
 
Trong khi được soản thảo một phần dựa trên Thông tư 66, Nghị định 20 đã mở rộng phạm vi diễn giải đối với một số quy định hiện hành, đồng thời đưa ra một số khái niệm, nguyên tắc mới theo Hướng dẫn của OECD và các Chương trình hành động BEPS. Phần mở đầu đã cho thấy mục tiêu của Nghị định là quản lý giá GDLK nhằm tránh thất thu thuế cho Ngân sách Nhà nước. Nghị định 20 còn giới thiệu khái niệm “bản chất quyết định hình thức” – là khái niệm để cơ quan thuế áp dụng trong công tác quản lý, kiểm tra và thanh tra giá GDLK. Quan điểm này là cơ sở cho việc soạn thảo các điều khoản và quy định được nêu trong Nghị định này.
Những thay đổi chính
 
Định nghĩa bên liên kết
 
Ngưỡng sở hữu được điều chỉnh tăng từ 20% lên 25%. Thêm vào đó, hai công ty sẽ không còn bị coi là có quan hệ liên kết nếu một bên kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp 50% tổng doanh thu hoặc giá trị mua nguyên vật liệu, hàng hóa đầu vào của bên kia. Theo Nghị định mới, một số doanh nghiệp nhỏ sẽ được miễn nghĩa vụ soạn lập Hồ sơ xác định giá GDLK trong một số điều kiện cụ thể.
 
Hồ sơ kê khai xác định giá GDLK
 
Nghị định 20 đưa ra yêu cầu về Hồ sơ kê khai xác định giá GDLK theo ba cấp nhằm thu thập được nhiều hơn thông tin về thuế của các công ty đa quốc gia. Nghị định đã áp dụng hướng tiếp cận như đã được khuyến nghị trong Chương trình hành động số 13 (BEPS) (Hướng dẫn chuẩn bị báo cáo về chính sách giá và báo cáo lợi nhuận liên quốc gia). Cụ thể, người nộp thuế phải chuẩn bị và lưu trữ Hồ sơ thông tin tập đoàn toàn cầu (Master file), Hồ sơ quốc gia (Local file) và Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia (Country by Country report).
 
Người nộp thuế phải cung cấp Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia trong trường hợp công ty mẹ tối hậu cũng có nghĩa vụ phải chuẩn bị và nộp báo cáo này cho Cơ quan thuế nước sở tại hoặc trong trường hợp người nộp thuế là Công ty mẹ tối hậu tại Việt Nam có doanh thu hợp nhất toàn cầu trong kỳ tính thuế từ 18 nghìn tỷ đồng Việt Nam trở lên. Nếu người nộp thuế không cung cấp được Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia, người nộp thuế phải có văn bản giải trình lý do, căn cứ pháp lý và trích dẫn quy định pháp luật cụ thể của nước đối tác về việc không cho phép người nộp thuế cung cấp Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia.
Người nộp thuế được miễn nghĩa vụ chuẩn bị Hồ sơ xác định giá GDLK (nhưng không bao gồm các nghĩa vụ khác theo quy định của Nghị định) nếu thỏa mãn một trong các điều kiện sau:
 
• có tổng doanh thu dưới 50 tỷ đồng và tổng giá trị tất cả các giao dịch liên kết phát sinh trong kỳ tính thuế dưới 30 tỷ đồng;
 
• đã ký kết Thoả thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (“APA”) và nộp Báo cáo thường niên theo quy định pháp luật về APA;
 
• có doanh thu dưới 200 tỷ đồng, thực hiện các chức năng đơn giản và đạt được mức tỷ suất lợi nhuận thuần trước lãi vay và thuế trên doanh thu đối với các chức năng phân phối, sản xuất và gia công lần lượt là 5%, 10% và 15%.
 
Hồ sơ xác định giá GDLK theo ba cấp phải được chuẩn bị trước thời điểm kê khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm, đồng nghĩa với việc người nộp thuế chỉ có 90 ngày (kể từ thời điểm kết thúc năm tài chính) để chuẩn bị hồ sơ xác định giá GDLK.
Mẫu tờ khai các GDLK mới theo Nghị định 20 yêu cầu người nộp thuế phải kê khai thông tin chi tiết về báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo nhóm GDLK và giao dịch độc lập. Bất kỳ chênh lệch đáng kể nào giữa mức lợi nhuận thu được từ các GDLK và giao dịch độc lập đều có thể làm gia tăng rủi ro cho người nộp thuế cũng như khiến cơ quan thuế đặt ra nhiều câu hỏi.
 
Người nộp thuế chỉ phát sinh giao dịch với bên liên kết trong nước có thể được miễn kê khai những thông tin này trong mẫu tờ khai mới với điều kiện người nộp thuế và bên liên kết đều áp dụng cùng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và không bên nào được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong cùng kỳ tính thuế.
 
Khấu trừ chi phí
 
Theo Nghị định 20, tổng chi phí lãi vay được khấu trừ cho mục đích tính thuế không vượt quá 20% chỉ số EBITDA (lợi nhuận trước thuế chưa trừ chi phí lãi vay và chi phí khấu hao). Mặc dù được quy định trong Nghị định về giá GDLK, điều khoản này được áp dụng đối với cả khoản vay từ bên liên kết và bên độc lập. Nghị định không có điều khoản quy định về chuyển tiếp và hồi tố.
 
Đối với các dịch vụ nội bộ, các tiêu chí xác định chi phí được khấu trừ cho mục đích tính thuế được đưa ra, cụ thể, người nộp thuế phải chứng minh dịch vụ nội bộ được nhận thực sự mang lại lợi ích kinh tế cho người nộp thuế, đồng thời phải đưa ra bằng chứng để chứng minh tính hợp lý của phương pháp xác định phí dịch vụ. Các chi phí sẽ không được khấu trừ cho mục đích tính thuế nếu người nộp thuế không chứng minh được lợi ích trực tiếp và giá trị của dịch vụ đó đem lại đối với hoạt động kinh doanh của mình, ví dụ như các dịch vụ trùng lắp, chi phí phục vụ lợi ích cổ đông v.v. Thêm vào đó, phần lãi do bên liên kết tính thêm trên chi phí trả cho bên thứ ba không được khấu trừ cho mục đích tính thuế trong trường hợp bên liên kết không đóng góp thêm giá trị cho dịch vụ đó.
 
Phân tích so sánh
 
Nghị định hướng dẫn chi tiết về phân tích so sánh, bao gồm cơ sở dữ liệu được sử dụng, lựa chọn phương pháp xác định giá GDLK, số lượng đối tượng so sánh độc lập tối thiểu và các yếu tố điều chỉnh khác (ví dụ như lợi thế chi phí theo yếu tố địa lý). Dữ liệu tài chính của các đối tượng so sánh độc lập phải cùng năm tài chính với năm tài chính của người nộp thuế hoặc cùng thời điểm phát sinh giao dịch. Tuy nhiên, thời gian thu thập dữ liệu của đối tượng so sánh độc lập có thể được mở rộng thêm không quá một năm trở về trước trong trường hợp cơ sở dữ liệu được sử dụng chưa được cập nhật tại thời điểm thực hiện phân tích so sánh.
 
Nghị định 20 cho phép cơ quan thuế có quyền sử dụng cơ sở dữ liệu nội bộ để ấn định thuế liên quan đến giá GDLK trong trường hợp người nộp thuế bị coi là không tuân thủ với các quy định của Nghị định này. Điều này có thể dẫn đến những bất đồng giữa người nộp thuế và cơ quan thuế ngày một gia tăng kéo dài.
 
Lưu ý khác
 
Điều chỉnh giá GDLK: Nghị định 20 nhấn mạnh rằng các phương pháp xác định giá GDLK mà người nộp thuế áp dụng phải đảm bảo không làm giảm nghĩa vụ nộp Ngân sách Nhà nước, đây được xem là điểm chưa nhất quán với nguyên tắc giao dịch độc lập (ví dụ: người nộp thuế không được phép thực hiện điều chỉnh giảm). Ngoài ra, Nghị định 20 không đưa ra hướng dẫn cụ thể về cách thực hiện điều chỉnh giá GDLK (ví dụ: điều chỉnh tăng) và những ảnh hưởng tiềm tàng tới các loại thuế khác (thuế giá trị gia tăng, thuế nhà thầu, v.v.).
 
Người nộp thuế thực hiện kinh doanh với chức năng đơn giản, bao gồm các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất hoặc phân phối không chịu rủi ro về hàng tồn kho, rủi ro về thị trường và không có chức năng quyết định chiến lược thì sẽ không gánh chịu lỗ phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, định nghĩa về “chức năng đơn giản” mang tính chủ quan cao và có thể dẫn tới những tranh cãi về vấn đề lãi / lỗ và việc xác định chức năng của người nộp thuế.
 
Nguồn PWC

 

TẢI TOÀN BỘ NỘI DUNG NGHỊ ĐỊNH

Tin liên quan